Hơn 9000 chữ trong “Thuyết văn giải tự” truy ngược về cội nguồn, dốc sức khôi phục nội hàm và bản chất đằng sau chữ Hán. Chữ Hán giống như “hóa thạch sống”, mang theo sự tìm tòi và ghi chép của người Trung Quốc cổ đại về vũ trụ và thiên thể, là nhịp cầu thân thuộc nhất mà lại xa lạ nhất để người đời sau hiểu về văn hóa Thần truyền Trung Hoa.
Văn tự Trung Quốc có lịch sử lâu đời. Trong “Dịch kinh – Hệ từ”, “Lã thị xuân thu” và các điển tịch khác đều có ghi chép rằng, Thương Hiệt, sử quan của Hoàng Đế đã sáng tạo ra chữ viết, khai sáng văn tự Hoa Hạ chính thống.
Từ các chữ như Giáp cốt văn, Kim văn cho đến Tiểu triện, là thuộc về thể hệ văn tự cổ. Đến thời Hán xuất hiện Lệ thư, là thuộc về thể hệ văn tự ngày nay. Do văn tự ngày nay có sự thay đổi khá lớn so với văn tự cổ đại, nên mọi người khó liễu giải được nội hàm vốn có của cổ văn, và dần dần sinh ra sự biến đổi.
Đến thời kỳ Đông Hán, Hứa Thận trước tác “Thuyết văn giải tự”, cố gắng khôi phục cội nguồn của chữ Hán, và ngăn chặn “hành vi biến đổi loạn” chữ Hán của mọi người.
Hứa Thận, tên tự là Thúc Trọng, là người làng Vạn Tuế, huyện Triệu Lăng, Nhữ Nam (tức làng Hứa Trang, huyện Yển Thành, tỉnh Hà Nam ngày nay). Ông từng đảm nhận chức quan Tế tửu của Tàng thư xứ của hoàng cung Đông Hán, hiệu đính các thư tịch cổ.
“Thuyết văn giải tự” đã nói rõ cội nguồn của chữ Hán: Ngẩng nhìn các thiên tượng trên trời, cúi nhìn các phép tắc dưới đất, quan sát hoa văn của các loài chim thú và sự thích nghi với địa phương, gần thì lấy từ bản thân, xa thì lấy từ các vật”.
Cũng có nghĩa là, từ thiên văn, địa lý, đến chim thú, cá tôm côn trùng, từ những vật xung quanh con người, đến những sự vật xa lạ ở xa, tất cả đều được rút gọn ‘kiểu toàn tức’ (mang theo toàn bộ thông tin) vào trong chữ Hán.
Khi giới thiệu văn tự tượng hình, Hứa Thận lấy ví dụ chữ “Nhật, Nguyệt”.
“Nhật: nghĩa là đầy”, cổ nhân cho rằng, trên mặt trời có con quạ vàng, Vương Sung đời Hán viết trong “Luận hoành – Thuyết nhật” rằng: “Nhà Nho nói rằng: trên mặt trời có con quạ 3 chân, trên mặt trăng có thỏ, cóc”.
Mỗi ngày đều có thể nhìn thấy mặt trời, mặt trăng, chữ tượng hình có mặt trực quan. Chữ Đán (旦 – buổi sáng), là hình mặt trời nhô lên khỏi đường chân trời, biểu thị trời đã sáng rồi. Chữ Tịch (夕 – buổi tối), là hình nửa mặt trăng mọc ra, biểu thị đã đến tối rồi. Đây là phương diện chữ tượng hình phù hợp với ấn tượng thường nhật của mọi người.
Chữ Đán trong Kim văn. Kim văn là chữ khắc đúc trên đồ đồng, Giáp cốt văn là chữ khắc trên mai rùa, là văn tự thời kỳ Thương Chu.
Chữ tượng hình có mặt trực quan, rõ ràng, nhưng đồng thời nó cũng có hàm nghĩa thần thánh, cao xa. Chữ Nhật (mặt trời) là tinh thái dương, Nguyệt (mặt trăng) là tinh thái âm. Người xưa cho rằng, mặt trời là tinh thái dương, chủ trì về sinh dưỡng ân đức, là tượng trưng cho quân vương”. Thái dương chiếu khắp vạn vật, có ân đức nuôi dưỡng sinh mệnh.
Trong văn hóa truyền thống Thiên – nhân hợp nhất của Trung Quốc, thì thiên tượng đối ứng với cát hung, họa phúc nhân gian, quan sát nhật thực, đối chiếu nhân gian, đó là cách làm thông thường của các triều đại dùng để “xem lành dữ”, khi xuất hiện nhật thực, là biểu thị bậc quân vương có chỗ thất đức, “tu sửa đức hạnh thì cái dữ cái hại bị loại trừ”.
Vì vậy trong “24 bộ sử”, bất kể triều đại nào, nếu xuất hiện nhật thực, thì không triều đại nào là không xem xét án tù oan, nghe lời trực ngôn, tu đức kính Trời, bù đắp sai lầm, những việc thế này có ở khắp mọi nơi.
Ngoài mặt trời, mặt trăng ra còn có các vì sao đầy trời, người xưa cho rằng, những vì sao trên trời này cũng đối ứng với nhân gian.
Lượng thông tin mà chữ Hán mang theo rất phong phú, cũng khiến thế giới phương Tây quan tâm chú ý.
Triết gia nổi tiếng của Pháp Jacques Derrida (1930-2004) đã từng nói, “chữ Hán là văn tự duy nhất trên thế giới có khả năng tự túc, tự bản thân nó đã bao gồm thông tin hoàn chỉnh”. (Chương 3, sách “Luận văn tự học” của Jacques Derrida, Nhà xuất bản dịch thuật Thượng Hải 1999, Uông Đường Gia dịch).
Trong cuốn “Khoa học kỹ thuật và văn minh Trung Hoa” của nhà khoa học nổi tiếng người Anh Joseph Needham đã viết rằng: “Nếu Thượng Đế từng dạy nhân loại một loại ngôn ngữ nào đó, thì loại ngôn ngữ đó nhất định sẽ phải giống chữ Hán”. (Thư của Gottfried Leibniz gửi La Croze, năm 1707).
Nguồn Mỹ Mỹ VĐH (tổng hợp)